Tiểu Sử Hòa Thượng THÍCH THÀNH KÝ

Tiểu Sử Hòa Thượng THÍCH THÀNH KÝ

I. Thân Thế:

Hòa thượng thế danh là Nguyễn Thành Ký, Pháp danh THỊ VỴ tự QUẢNG CHÂU hiệu NGỘ TRÍ. Ngài sinh năm 1926 (Mậu Thìn) tại Thôn Nhạn Tháp, Xã Nhơn Hậu, Huyện An Nhơn nay thuộc Thị Xã An Nhơn Tỉnh Bình Định. Thân Phụ là ông Nguyễn Hứa pháp danh Như Chư, Thân Mẫu là bà Đặng Thị Thảo pháp danh Thị Phương. Thân sinh Ngài có 5 người con, bốn trai một gái, Chị hai tên: Nguyễn Thị Đề, anh ba tên: Nguyễn Cư. Anh Bốn tên: Nguyễn Mô, Ngài là thứ năm tên Nguyễn Thành Ký, người em thứ sáu tên Nguyễn Vân. Thân phụ Ngài là một nhà Nho thông thái kiến thức khá giỏi làm chức Hương Mục thường gọi là Hương mục Đề, cả gia đình đều sùng mộ Phật Pháp. Đến năm 12 tuổi (năm 1939) có duyên với Phật Pháp nên Ngài xin phép thân sinh đi xuất gia, Ngài đến đầu sư với Thủ Tọa Diêm hay còn gọi là Thủ Tọa Mỹ, Đạo hiệu Như Diệu, là Thủ Tọa của chùa Nhạn Sơn, còn gọi là chùa ông Đỏ ông Đen tọa lạc tại Thôn Nhạn Tháp, Xã Nhơn Hậu, Huyện An Nhơn nay là TX. An Nhơn. Ngài được ban pháp danh là Thị Vỵ. Năm 1952, thọ Đại giới tại giới đàn chùa Thiên Bình do Hòa thượng Từ Huệ Chiếu làm Đường đầu.

 

II. SỰ NGHIỆP:

Ngài đã được cử làm trụ trì các ngôi chùa như sau:

– Năm 1948: Trụ trì chùa Nhạn sơn, Thôn Nhạn Tháp, Xã Nhơn Hậu, Huyện An Nhơn.

– Năm 1957: Trụ trì chùa Giác Viên, Xã Mỹ Chánh, Huyện Phù Mỹ.

– Năm 1964: Trụ trì chùa Chi Hội Phật Giáo Phù Mỹ nay là chùa Tịnh Quang, Thị Trấn Phù Mỹ, Huyện Phù Mỹ.

Ngoài ra Ngài còn khai sơn sáng lập thêm các ngôi chùa như sau:

– Năm 1960, khai sơn chùa Giác Minh, Thôn Thuận Đức, Xã Nhơn Mỹ, Huyện An Nhơn. Hiện nay chùa không còn tồn tại.

– Năm 1973, khai sơn chùa Tường Vân, Thôn Tân Lộc, Xã Mỹ Lộc, Huyện Phù Mỹ.

 

III. CHÚNG MÔN ĐỆ:

1) Hòa thượng Thích Đồng Từ, thế danh: Nguyễn Huấn (viên tịch ngày 6/3),

2) Hòa Thượng Thích Đồng Hạnh, thế danh: Trần Hân (viên tịch ngày 18/7).

3) Hòa Thượng Thích Đồng Thọ, thế danh: Nguyễn Tấn Phước Hiện Trụ Trì chùa Giác Minh Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng.

Ngoài ra Ngài còn có một số chúng đệ tử đã hoàn tục và đã quá cố như : Trần văn Bút PD Đồng Trí tự Tịnh Hoa, Đỗ Văn Thiện PD Đồng Thiện, Huỳnh Văn Nam PD Đồng Hương. Ngài cũng đã nhận một số đệ tử cầu pháp như: chú Xuân, chú Lan, chú Ngon và Quang Thành Lương Đức Lân.

 

IV. CÁC HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ:

– Năm 1956, Ngài được cử làm Tổng Thư Ký Giáo Hội Tăng Già Bình Định dưới sự lãnh đạo của Hòa Thượng Thích Huệ Chiếu làm Trị Sự Trưởng.

Năm 1957 chùa Tịnh Quang thuộc Thôn Thái An xã Mỹ Chánh Huyện Phù Mỹ được Ngài Thích Phước Thành Trụ Trì Tổ Đình Thiên Phước trùng tu và cải hiệu là chùa Giác Viên, Ngài Thích Phước Thành ngỏ ý thỉnh Ngài từ chùa Nhạn Sơn ra Trụ Trì chùa Giác Viên và được Ngài hoan hỷ, sau đó Thiện Tín Phật tử làm lễ cung thỉnh Ngài. Đến Năm 1964 vì chiến tranh và khu vực xã Mỹ Chánh thường mất an ninh các hoạt động đi lại khó khăn, đồng thời chùa Chi Hội Phật Giáo Phù Mỹ sau khi Hòa Thượng Thích Đổng Quan (Như Cầu) chuyển sinh hoạt Phật sự nơi khác nên chùa khuyết vị trụ trì. Ngài được Giáo Hội PGVN Thống Nhất cử trụ trì chùa Chi Hội Phật Giáo Phù Mỹ thuộc Xã Mỹ Quang nay là Thị Trấn Phù Mỹ và giao lại chùa Giác Viên cho đệ tử là Thích Đồng Hạnh quản lý. Khi tiếp nhận Trụ Trì chùa Chi Hội Phật Giáo Phù Mỹ đồng thời Ngài cũng nhận cương vị Chánh Đại Diện Phật Giáo Quận Phù Mỹ. Sau làn sóng đàn áp Phật Giáo, hạn chế mọi sinh hoạt tín ngưỡng Phật Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1963, các hoạt động tín ngưỡng quần chúng nơi địa phương hầu như bị tê liệt một thời gian dài. Đến năm 1964 khi tiếp nhận cương vị Chánh Đại Diện Ngài đã vực dậy tạo phong trào sinh hoạt Phật sự ở các xã dưới sự chỉ đạo chung của Phật Giáo Tỉnh nhà. Thành lập các Khuôn Hội như: Khuôn Hội Mỹ Hòa (nay là chùa Thường Lạc), Khuôn Hội Mỹ Phong (chùa Mỹ Phong), Khuôn Hội Mỹ Đức (chùa Triều Sơn), Khuôn Hội Mỹ Cát (chùa Phước Mỹ), Khuôn Hội Mỹ Thắng (chùa Thanh Quang) v.v…

Đồng thời thành lập nhiều Vức Hội ở mỗi Thôn có điều kiện để Tín đồ sinh hoạt học Phật dưới sự quản lý của Khuôn Hội. Như Mỹ Phong có Vức Hội Vĩnh Bình (chùa Phổ Minh), Vức Hội Phước Thung (chùa Vạn Phước). Xã Mỹ Lợi có Vức Hội Chánh Khoan (chùa Giác Chánh), Vức Hội Phú Ninh (chùa Giác Sanh), Vức Hội Mỹ Phú (chùa Quang Minh) …

Ngài đã có công kiện toàn tổ chức Gia Đình Phật Tử ở một số xã như Mỹ Quang, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa…

 

V. HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC &VĂN HÓA:

Ngài đã chịu trách nhiệm thành lập trường Bồ Đề Phù Mỹ với hai cấp, Tiểu học và Trung học đệ nhất cấp và được cấp phép hoạt động ngày 25 tháng 01 năm 1965. Ngài đã sắp xếp mặt bằng, địa điểm. Kêu gọi cổ đông xây dựng gồm có: ông Nguyễn Hậu (thường gọi là ông Chánh Hậu), ông Hồ Công Cẩn, ông Nguyễn Vĩnh Lộc .v.v… Mời thầy Trương Nghiệp Vũ làm Hiệu Trưởng để bảo đảm công tác chuyên môn văn hóa. Sau ba năm hoạt động thầy Trương Nghiệp Vũ thoát ly làm cách mạng, Ngài mời thầy Lê Doãn Cánh thay thế chức danh Hiệu Trưởng và Ngài làm Giám Đốc lãnh đạo chung các công tác hoạt động của nhà trường, đến năm 1969 Ngài được chỉ định lãnh đạo thêm 2 trường ở địa phương khác là trường Bồ Đề Hoài Hảo và trường Bồ Đề Thiên Phước.

Từ năm 1972 về sau tình hình chiến sự mở rộng, chiến tranh càng có nhiều bất ổn. Trường tư thục Đồng Công cơ sở giáo dục của Công Giáo phải đóng cửa, ngừng hoạt động. Trường Bồ Đề số lượng học sinh giảm sút, thu không đủ chi để duy trì hoạt động giúp con em có thể tiếp tục học hành, với tấm lòng vị tha Ngài đã vận động mọi khả năng kinh tế, thu hẹp các khoản chi Ngài đã cơ cấu cho đệ tử mình là Quang Thành (Lương Đức Lân) làm các công tác như Thư Ký+Giám Thị+Thu Ngân đưa vào một mối mà không có chi phí tiền lương.

 

VI. HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI:

– Trong giai đoạn chiến tranh ác liệt và các biến loạn bắt bớ giam cầm của chính quyền Sài Gòn, Ngài đã đưa ra các biện luận tình lý sắc bén để can thiệp Cảnh Sát trả tự do cho số người ở chùa thầy Phước theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa bị bắt nhốt tù tại chi Cảnh Sát Phù Mỹ và giúp cho những người ở chùa nầy được phép cư trú tu học tại đó, tránh chiến sự giao tranh. Bảo lãnh cho cụ Bố ở Mỹ Chánh được phóng thích tha tù. Ngài đã chở che nuôi dưỡng một số người già yếu, tàn tật và trẻ mồ côi như bà cụ Huýnh, ông lão quét trường, cháu Trinh nay có chồng con ở Đập Đá. Ngài đã cưu mang giúp đỡ, tạo nơi ăn ở và sinh kế sống trong khuôn viên chùa để xa tránh các cuộc giao tranh như cô Liêm, anh Diệu, gia đình bà Phê, gia đình bà Bô, gia đình Mười Khủng, Gia đình ông Hải, gia đình ông Sửu, gia đình bà Thời .vv…

VII. CÔNG TÁC THIÊN DI:

– Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, việc giáo dục được Nhà Nước quản lý, Ngài đã cống hiến phòng ốc mặt bằng của trường làm nhà trẻ. Từ năm 1977 đến năm 1979 nhà nước nhiều lần yêu cầu chùa phải chuyển đi nơi khác để việc sinh hoạt tín ngưỡng thuận lợi phải tránh xa cơ quan làm việc của chính quyền. Ngài đã khẳng khái nói lên yêu cầu chính đáng của cá nhân và tập thể Phật giáo:

1- là mặt bằng phải có diện tích tương xứng về đất vườn và đất ruộng của Giáo Hội hiện có: Vườn một mẫu, ruộng 7 sào.

2- là cơ sở xây dựng phải có nơi thờ tự-tín ngưỡng tâm linh, phải có nơi sinh hoạt đời sống cho chư Tăng và Tín đồ, vì lúc bấy giờ mọi khả năng tài chính của chùa rất khó khăn sau thời gian dài chiến tranh,đời sống của Tín đồ cũng không mấy khả quan. Nếu nhà nước không đáp ứng được thì tôi không thể đi đâu được. Ngài nói: “Tôi xuất gia lúc 12 tuổi giờ này đã trên 50, có sống cũng sống tại đây, nếu chết cũng chết tại đây chứ không thể nào khác được”.

Đến năm 1981, Trước những lý lẽ vững chắc, những yêu cầu hợp lý nhà nước phải chuyển đến phía tây cầu Bình Trị cất một ngôi chùa nhỏ và hoán đổi đất vườn đất ruộng để chùa sinh hoạt sản xuất bảo đảm cuộc sống thường nhật. (Đất vườn là một bãi đất bồi từ xưa của sông Bình Trị nên không trồng trỉa được. Ngài cùng đệ tử phải lên tận Trinh Vân-Mỹ Trinh xin đất trồng mì, Đất ruộng mãi 6 năm sau mới có thủ tục hoán đổi). Trong vô vàn khó khăn Ngài vẫn giữ lòng kiên định vì sự nghiệp hoằng dương Phật Pháp, đào tạo Tăng tài, giáo hóa chúng sanh.

VIII. NHỮNG NĂM CUỐI:

Sau khi hòa bình lập lại thống nhất đất nước năm vào 1975, toàn dân tích cực tham gia khôi phục lại đất nước đã bị tàn phá vì hệ lụy của cuộc chiến tranh, Ngài cùng các Đệ tử cũng không ngừng tăng gia sản xuất, để có đắp đổi cho cuộc sống của người tu Phật. Năm 1977 Ngài thu nhận thêm đệ tử là thầy Đồng Thọ (Nguyễn Tấn Phước) quê ở xã Mỹ Chánh lên ở cùng Ngài. Đến Năm 1981 Trung ương thành lập, hợp nhất các hệ phái Phật Giáo dưới sự lãnh đạo của ngôi nhà chung được lấy tên là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Lúc này tỉnh Bình Định và Tỉnh Quảng Ngãi được gộp chung là Tỉnh Nghĩa Bình. Phật Giáo tỉnh Nghĩa Bình được hình thành và Đại hội Đại biểu Phật Giáo nhiệm kỳ I (1982-1986) Huyện Phù Mỹ cũng được tổ chức Đại Hội thành lập Ban Đại Diện Phật Giáo nhiệm kỳ I (1983-1987) lúc đó Thượng Tọa Thích Phước Thành là Chánh Đại Diện và Thượng Tọa Thích Thành Ký làm Phó Đại Diện.

Bước qua nhiệm kỳ thứ II (1987-1990) Ban Đại Diện Phật Giáo Huyện Phù Mỹ có thêm vị Thư ký chính thức là Đại Đức Thích Chúc Thọ.

Ngày 30/6/1989 cơ cấu hành chính lại chia tách hai tỉnh trở lại, ngày 28-29/11/1989 GHPGVN tỉnh Bình Định Đại Hội nhiệm kỳ I, Ngài là ủy viên Ban Trị Sự PG Tỉnh trong nhiệm kỳ này, Phật Giáo Huyện Phù Mỹ cũng lại Đại hội Nhiệm kỳ I (1991- 1996), Ngài cùng Ngài Thích Phước Thành và Thư Ký Đại Đức Thích Chúc Thọ đảm đương trách nhiệm Ban Đại Diện của huyện nhà suốt thời gian dài, Ngài có cách nói chuyện đặc biệt thu hút người nghe, không những Tín đồ mà những người không phải tín đồ đều kính tin và ngưỡng mộ.

Đến ngày 17-01-1992 (13/Chạp/Tân Mùi), vô thường chợt đến, trải qua một cơn bạo bệnh, Ngài đã an nhiên thị tịch. Đúng là:

Vô thường một cõi hư không,

Trầm luân một thưở bụi hồng nhân gian.

Nguyện lòng thanh khiết mây ngàn,

Thãnh thơi trải rộng thênh thang ân tình.

Sự vắng bóng Ngài trên cõi đời này, đã để lại bao nhiêu sự kính tiếc trong lòng các tử đệ, các Phật sự còn dan dỡ chưa hoàn thành theo tâm nguyện của Ngài, Thiện Tín Phật Tử Chùa Tịnh Quang nói riêng, Huyện Phù Mỹ và các Huyện lân cận nói chung, đều tỏ lòng mến tiếc một bậc đạo sư, đã để lại trong tâm khảm mọi người một dấu ấn đậm sắc tâm linh không hề phai nhạt. chúng con hàng đệ tử, đệ tôn xin thành tâm kính lễ và tưởng niệm ân đức cao cả của Ngài.

NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÚC THÁNH CHÁNH TÔN NHẠN SƠN PHÁP PHÁI TỨ THẬP NHỊ THẾ TỊNH QUANG ĐƯỜNG THƯỢNG KHAI SƠN GIÁC MINH, TƯỜNG VÂN TỰ hủy thượng THỊ hạ VỴ tự QUẢNG CHÂU hiệu NGỘ TRÍ HÒA THƯỢNG GIÁC LINH LIÊN TÒA chứng minh.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *